Công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp là một loại hình
doanh nghiệp, bởi vậy phải thừa nhận rằng công ty hợp danh trước hết phải là: “
tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.”
Từ cách hiểu này về doanh nghiệp ta có thể khái quát về công
ty hợp danh trên cơ sở quy định tại Điều 130 LDN:
“ Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất
hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một
tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh
có thể có thành viên góp vốn;”
Tại khoản 1, Điều 26 Nghị định của Chính phủ số
03/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 hướng dẫn thi hành một số điều của luật
doanh nghiệp quy định:
“ Có hai loại công ty hợp danh là công ty hợp danh có tất cả
thành viên đều là thành viên hợp danh và công ty hợp danh có cả thành viên hợp
danh và thành viên góp vốn.”
Có thể thấy khái niệm công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp
của Việt Nam có nội hàm của khái niệm công ty đối nhân theo pháp luật các nước.
Với quy định về công ty hợp danh, Luật doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của
công ty đối nhân ở Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét